Hậu kỳ Trung Cổ Trung_Cổ

Bài chi tiết: Hậu kỳ Trung Cổ

Chiến tranh, nạn đói và dịch bệnh

Những năm đầu tiên của thế kỉ 14 được đánh dấu bởi nạn đói, đỉnh điểm là Đại nạn đói năm 1315-1317.[240] Nguyên nhân của nạn đói này bao gồm sự chuyển dịch từ thời kỳ ấm Trung cổ sang thời Tiểu Băng hà, khiến cho dân chúng lao đao khi thời tiết xấu gây mất mùa.[241] Những năm 1313-1314 và 1317-1321 trên toàn châu Âu đặc biệt nhiều mưa, khiến cho khắp nơi thất thu gặt hái.[242] Thay đổi khí hậu-dẫn đến sụt giảm nhiệt độ trung bình hàng năm trong thế kỉ 14 đi kèm với một đợt suy thoái kinh tế.[243]

Xử tử một số thủ lĩnh Jacquerie, trong một bản thảo của Chroniques de France ou de St Denis thế kỉ 14.

Những khó khăn này được tiếp nối năm 1347 bởi Cái chết Đen, một bệnh dịch lan tràn khắp châu lục trong ba năm sau đó.[244][chú thích 26] Con số tử vong vào cỡ 35 triệu người trên toàn châu Âu, tức một phần ba dân số. Các thị trấn đặc biệt bị tàn phá bởi các điều kiện sinh hoạt chật chội ở đó.[chú thích 27] Nhiều vùng rộng lớn trở nên hoàn toàn hoang vắng, và ở một số vùng các cánh đồng không có người canh tác. Tiền công tăng lên vì địa chủ tìm cách thu hút lượng nhân công khan hiếm tới cánh đồng của mình. Các thảm họa càng kéo dài tiền thuê đất càng giảm và nhu cầu lương thực cũng giảm theo, cả hai điều làm giảm thu nhập từ nông nghiệp của địa chủ. Những thợ thủ công ở thành thị cũng bắt đầu cảm thấy rằng họ có quyền được trả lương khá hơn, và mâu thuẫn xã hội bùng lên thành những cuộc nổi dậy quy mô lớn ở nhiều nơi.[247] Trong số đó có phong trào Jacquerie ở Pháp, khởi nghĩa nông dân ở Anh, và các cuộc nổi loạn ở Firenze (Ý) và Gent, Brugge (Vlaanderen). Sự tàn phá khủng khiếp của bệnh dịch dẫn đến một sự mộ đạo sám hối trên khắp châu Âu, thể hiện thành những quỹ từ thiện mới được thành lập, phong trào tự hành xác tập thể của "những người tự đánh đòn" (flagellant), và quy người Do Thái gây nên bệnh dịch và tăng cường ngược đãi họ.[248] Tình hình ngày càng trở nên mất ổn định khi bệnh dịch còn tái phát nhiều lần trong suốt phần còn lại của thế kỉ 14; nó thậm chí còn tiếp tục tấn công châu Âu một cách định kì trong phần còn lại của thời Trung Cổ.[244]

Xã hội và kinh tế

Xã hội toàn châu Âu bị xáo trộn bởi Cái chết Đen. Các mảnh đất từng cho năng suất thấp bị bỏ hoang, vì những người sống sót nay dễ kiếm được những mảnh đất màu mỡ hơn.[249] Mặc dù chế độ nông nô suy giảm ở Tây Âu nó lại trở nên phổ biến hơn ở Đông Âu, vì địa chủ áp đặt nó lên những tá điền trước đó còn tự do.[250] Hầu hết nông dân ở Tây Âu tìm cách thay đồi chuyển công lao động nợ địa chủ trước kia thành tiền thuê đất.[251] Phần trăm nông nô trong giới nông dân giảm từ đỉnh cao 90 tới khoảng 50 phần trăm cuối thời kì này.[155] Địa chủ cũng trở nên nhận thức nhiều hơn về lợi ích chung với các địa chủ khác, hợp lực với nhau để đòi hỏi đặc lợi từ chính quyền. Một phần dưới áp lực của địa chủ, các chính quyền tìm cách luật hóa một sự quay về các điều kiện kinh tế thời trước Cái chết Đen, nhưng ít thành công.[251] Tỉ lệ biết đọc biết viết trong dân chúng ngày càng tăng, và dân cư thành thị bắt đầu bắt chước phong cách hiệp sĩ của giới quý tộc.[252]

Các quốc gia hồi sinh

Bản đồ châu Âu năm 1360

Thời Hậu kỳ Trung Cổ chứng kiến sự trỗi dậy của các quốc gia dân tộc quân chủ hùng mạnh đặc biệt là ở Anh, Pháp và các vương quốc Ki-tô giáo ở bán đảo Iberia: AragonCastilla, và Bồ Đào Nha. Những tranh chấp kéo dài cuối thời Trung Cổ tăng cường quyền kiểm soát của các hoàng gia lên vương quốc của họ, nhưng giới nông dân gánh chịu hậu quả. Các vị vua hưởng lợi từ chiến tranh tăng cường quyền lực hoàng gia và mở rộng miền đất trung ương kiểm soát trực tiếp.[253] Việc chi trả cho chiến tranh đòi hỏi những biện pháp đánh thuế hiệu quả và hữu hiệu hơn, và mức thuế thường tăng ở khắp nơi.[254] Mặt khác tầm quan trọng của thuế khóa kéo theo đó sự cần thiết đạt được đồng thuận của những người chịu đóng thuế dẫn tới các thể chế đại diện như Nghị viện Anh hay Hội nghị Đẳng cấp Pháp tích lũy quyền lực.[255]

Jeanne d'Arc trong một minh họa thế kỉ 15

Trong suốt thế kỉ 14, các vị vua Pháp tìm cách mở rộng ảnh hưởng họ trên các lãnh địa của quý tộc.[256] Họ gặp thách thức lớn khi tìm cách tịch thu các tài sản của vua Anh ở miền nam Pháp, dẫn đến Chiến tranh Trăm Năm[257] kéo dài đến tận năm 1453.[258] Buổi đầu cuộc chiến người Anh dưới thời Edward III (cai trị 1327-1377) và con trai ông là Edward, Hoàng tử Đen (mất năm 1376)[chú thích 28] đã thắng các trận quan trọng ở CrécyPoitiers, chiếm đóng thành phố trọng yếu Calais và kiểm soát phần lớn nước Pháp.[chú thích 29] Những áp lực kéo theo đó gần như đã khiến vương quốc Pháp tan rã trong những năm đầu cuộc chiến, tuy nhiên những khó khăn tài chính và nội bộ ở Anh khiến hai bên ký kết hòa ước.[261] Vào đầu thế kỉ 15, nước Pháp một lần nữa tiến gần đến chỗ giải thể, khi Charles VI của Pháp phát bệnh điên và các lãnh chúa lao vào nội chiến, quân Anh dưới quyền Henry V đã đại thắng tại trận Agincourt (1415). Tuy nhiên, vào cuối những năm 1420 các thắng lợi quân sự của Jeanne d'Arc (mất năm 1431) dẫn tới chiến thắng chung cuộc của người Pháp và Anh đánh mất những lãnh địa cuối cùng ở miền nam Pháp vào năm 1453.[262] Cái giả phải trả là rất đắt, với dân số Pháp chỉ còn khoảng một nửa so với trước cuộc chiến. Ngược lại, chiến tranh có tác động tích cực lên sự hình thành bản sắc dân tộc Anh, hòa trộn những tính cách địa phương vào một lý tưởng dân tộc Anh. Tranh chấp cũng giúp tạo nên một văn hóa dân tộc ở Anh tách biệt khỏi văn hóa Pháp mà trước đó từng có ảnh hưởng thống trị lên văn hóa Anh trước chiến tranh.[263] Thời kì đầu của cuộc chiến cũng đánh dấu sự thống trị của cung dài (longbow),[264] và sự xuất hiện của đại bác trên chiến trường tại Crécy năm 1346.[224]

Đế quốc Rôma Thần thánh tiếp tục tồn tại, nhưng do ngôi hoàng đế là do bầu cử, không có một triều đại nào kéo dài đủ lâu để xây dựng lên một nhà nước mạnh.[265] Xa hơn về phía đông, các vương quốc Ba Lan, vương quốc Hungary và vương quốc Bohemia trở nên hùng mạnh.[266] Các vương quốc ở bán đảo Iberia tiếp tục mở rộng lãnh thổ bằng cách đẩy lùi người Hồi giáo ra khỏi bán đảo;[266] Bồ Đào Nha tập trung vào việc bành trướng hải ngoại trong thế kỉ 14, trong khi các vương quốc khác bị chia cắt bởi những khó khăn do việc kế tục vương vị và các vấn đề khác.[267][268] Nước Anh, sau khi thất bại trong Chiến tranh Trăm Năm, tiếp tục rơi vào một cuộc nội chiến kéo dài biết đến dưới tên Chiến tranh Hoa Hồng, kéo dài tới tận năm 1490,[268] và chỉ kết thúc khi Henry Tudor (cai trị năm 1485-1509) lên ngôi vua (tức Henry VII) và củng cố quyền kiểm soát đất nước sau chiến thắng trước Richard III (cai trị 1483-1485) tại trận Bosworth năm 1485.[269] Miền Scandinavia trải qua một thời kì thống nhất dưới Liên minh Kalmar trong thế kỉ 14 và đầu thế kỉ 15, nhưng giải thể một lần nữa sau cái chết của Margrete I của Đan Mạch (mất năm 1412) người từng thống nhất Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển. Một thế lực quan trọng quanh biển Baltic là Liên hiệp Hanseatic, một liên minh thương mại của các thành bang có hoạt động buôn bán từ Tây Âu tới Nga.[270] Scotland thoát ra khỏi sự thống trị của Anh dưới thời Robert Bruce (cai trị 1306-1329), người được giáo hoàng công nhận vương vị vào năm 1328.[271]

Sự sụp đổ của Byzantine

Mặc dù các đời hoàng đế dòng Palaiologos tái chiếm Constantinopolis từ tay người Tây Âu năm 1261, họ không thể tái chiếm phần lớn các miền đất đế quốc trước kia. Lãnh thổ họ kiểm soát được thường chỉ bao gồm bản thân thành phố cộng thêm một phần nhỏ bán đảo Balkan gần Constantinople vài vùng ven biển AegeaBiển Đen. Các miền đất thuộc Byzantine trước kia ở Balkan nay thuộc về Vương quốc Serbia, Đế chế Bulgaria thứ hai và Cộng hòa Venezia. Quyền lực của các hoàng đế Byzantine bị đe dọa bởi một bộ tộc người Thổ mới là Ottoman, những người xây dựng lực lượng ở miền Anatolia đầu thế kỉ 13 và đều đặn bành trướng trong khắp thế kỉ 14. Người Ottoman bành trướng vào châu Âu, biến Bulgaria thành một nước chư hầu năm 1366 và chiếm Serbia sau khi đánh bại vương quốc này tại trận Kosovo năm 1389. Người Tây Âu tập hợp lại trước cảnh ngộ người Ki-tô giáo ở Balkan và tuyên bố một cuộc thập tự chinh mới vào năm 1396, một đội quân lớn được gửi tới đây nhưng bị đánh bại tại trận Nicopolis.[272] Bị bao vây tứ phía và kiệt quệ sức lực, thành Constantinople-thành đô lớn nhất châu Âu trong 1000 năm-thất thủ sau gần hai tháng cầm cự vào năm 1453.[273]

Tranh cãi bên trong Giáo hội

Guy của Boulogne trao vương miện cho Giáo hoàng Gregorius XI trong một bức tiểu họa từ cuốn Biên niên sử của Jean Froissart

Thế kỉ 14 đầy khó khăn chứng kiến thời kỳ vua Pháp buộc các đời Giáo hoàng dời tới Avignon những năm 1305-1378,[274] cũng gọi là cuộc lưu đày Babylon của Giáo hoàng (liên hệ tới cuộc lưu đày Babylon của người Do Thái),[275] và sau đó là Ly giáo Tây phương từ năm 1378 tới 1418, khi có hai, sau đó là ba, vị giáo hoàng đối địch, mỗi vị được một số quốc gia kình địch nhau ủng hộ.[276] Những năm đầu thế ki 15, sau một thời kì biến động, các chức sắc giáo hội họp tại Công đồng Constance (1414) và quyết định lần lượt bãi miễn các vị giáo hoàng và đến tháng 11 năm 1417 bầu lên Giáo hoàng Martinus V.[277]

Bên cạnh ly giáo, giáo hội phương tây cũng chia rẽ trong các tranh cãi thần học, và một số bị quy thành dị giáo. John Wycliffe (mất năm 1384), một nhà thần học Anh bị buộc tội dị giáo năm 1415 do truyền giảng rằng giáo dân cần phải được tiếp cận Kinh Thánh (vốn trước giờ chỉ dành cho giáo sĩ) cũng như giữ quan điểm về Tiệc thánh khác với giáo lý giáo hội.[278] Những bài giảng của Wycliffe ảnh hướng tới hai trong số những phong trào dị giáo lớn thời hậu kỳ Trung Cổ: Lollardy ở Anh và Hussite ở Bohemia.[279] Người Bohemia cũng chịu ảnh hưởng từ những bài giảng của Jan Hus, người bị lừa triệu tập tới Công đồng Constance rồi đem hỏa thiêu năm 1415. Giáo hội Hussite đã chiến thắng một cuộc thập tự chinh và tồn tại qua thời Trung Cổ, báo trước Cải cách Tin Lành sau này.[280] Các tranh chấp khác cũng xảy ra, như việc buộc tội chống lại hiệp sĩ dòng Đền dẫn tới lệnh cấm dòng tu này hoạt động năm 1312, và sự chia rẽ giữa vua Pháp Philippe IV (cai trị 1285-1314) và dòng Hiệp sĩ Cứu tế.[281]

Trong thời Hậu kỳ Trung Đại, Giáo hoàng thay đổi thực hành trong thánh lễ, quy định rằng chỉ có linh mục mới được hưởng phần rượu thánh trong Tiệc thánh. Điều này tăng khoảng cách giữa giáo dân và giáo sĩ. Giáo dân tiếp tục tiến hành những cuộc hành hương, tôn kính thánh tích, và tin có quyền lực của quỷ dữ. Những nhà thần bí như Meister Eckhart (mất năm 1327) hay Thomas à Kempis (mất năm 1471) viết những tác phẩm dạy giáo dân tập trung vào đời sống tinh thần bên trong, đặt nền tảng cho Kháng Cách. Bên cạnh chủ nghĩa thần bí, niềm tin vào phù thủy phổ biến rộng khắp, vào cuối thế kỉ 15 Giáo hội bắt đầu cung cấp thêm căn cứ cho nỗi sợ phù thủy trong dân chúng bằng sự lên án phù thủy vào năm 1484 và công bố cuốn Malleus Maleficarum (Lưỡi búa phù thủy), được xem như sổ tay trong những cuộc săn phù thủy ở thời cận đại.[282]

Học giả, trí thức và phát kiến địa lý

Cuối thời Trung Đại chứng kiến một sự phản ứng lại chủ nghĩa kinh viện, dẫn đầu bởi John Duns Scotus (mất năm 1308)[chú thích 30]William xứ Ockham (mất khoảng năm 1348),[208] cả hai đều chống lại sự áp dụng lý trí vào đức tin. Nỗ lực của họ, cùng với những người khác, dẫn tới một sự xói mòn ý tưởng kiểu Platon về "cái phổ quát" thịnh hành đương thời. Sự nhấn mạnh củ Ockham rằng lý trí vận hành độc lập với đức tin cho phép khoa học tách khỏi thần học và triết học.[283] Các nghiên cứu luật học cũng ghi nhận sự thắng thế từ từ của luật Rôma vào các lĩnh vực tư pháp trước đây cai quản bởi luật phong tục. Một ngoại lệ của khuynh hướng này là ở Anh, nơi luật tục vẫn còn phổ biến. Các quốc gia cũng san định các điều luật riêng lẻ thành các bộ luật, không chỉ ở trung tâm châu Âu mà cả những miền xa xôi như Castilla hay Lithuania.[284]

Các tu sĩ đang nghiên cứu thiên văn học và hình học, tranh ở Pháp đầu thế kỉ 15

Giáo dục vẫn chủ yếu tập trung vào việc đào tạo tầng lớp giáo sĩ kế cận. Việc học chữ viết và số cơ bản diễn ra trong phạm vi gia đình và từ các linh mục của làng, nhưng các môn trung học–ngữ pháp, tu từ, luận lý–được gọi là trivium, thì được dạy ở các trường thuộc nhà thờ chính tòa hoặc trường thành phố. Các trường tư xuất hiện, nhất là ở các thành thị Ý. Các trường đại học cũng lan rộng khắp châu Âu trong các thế kỉ 14 và 15. Sự nổi lên của văn học thế tục tăng cường, với Dante (mất năm 1321) và Petrarca (mất năm 1374) và Giovanni Boccaccio (mất năm 1375) ở Ý thế kỉ 14, Geoffrey Chaucer (mất năm 1400) và William Langland (mất năm 1386) ở Anh, và François Villon (mất năm 1464) và Christine de Pizan (mất khoảng năm 1430) ở Pháp. Phần lớn văn học mang tính cách tôn giáo, và mặc dù một phần lớn của nó được viết bằng tiếng Latin, một nhu cầu mới phát triển về đời sống các vị thánh và các tiểu luận tôn giáo khác trong ngôn ngữ thế tục.[284] Điều này được nuôi dưỡng của sự lớn mạnh của phong trào Devotio Moderna và cả trong các tác phẩm của những nhà thần bí Đức như Meister Eckhart và Johannes Tauler (mất năm 1361).[285] Sân khấu cũng phát triển dưới cái vỏ của kịch phép màu biểu diễn bởi nhà thờ.[284] Vào cuối thời kì này, sự phát triển của công nghệ in vào khoảng năm 1450 dẫn tới sự thành lập của các nhà xuất bản khắp châu Âu vào khoảng năm 1500.[286] Tỉ lệ biết chữ trong giới bình dân tăng lên, nhưng vẫn còn thấp: một ước tính cho rằng tỉ lệ này cỡ 10 phần trăm ở đàn ông và một phần trăm ở phụ nữ vào năm 1500.[287]

Từ thế kỉ 15, các quốc gia trên bán đảo Iberia bắt đầu tài trợ các cuộc khám phá ngoài lãnh thổ châu Âu. Hoàng tử Henry Nhà hàng hải của Bồ Đào Nha (mất năm 1460) đã gửi các đoàn thám hiểm khám phá ra quần đảo Canaria, AçoresCabo Verde. Sau khi ông mất, các cuộc thám hiểm tiếp tục; Bartolomeu Dias (mất năm 1500) đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng năm 1486 và Vasco da Gama (mất năm 1524) dong thuyền vòng qua châu Phi để tới Ấn Độ năm 1498.[288] Các nhà quân chủ Tây Ban Nha ở Castilla và Aragon cùng nhau tài trợ chuyến thám hiểm của Cristoforo Colombo (mất năm 1506) năm 1492 dẫn tới việc tìm thấy châu Mỹ.[289] Nước Anh dưới thời Henry VII tài trợ chuyến đi của John Cabot (mất năm 1498) năm 1497 đặt chân tới đảo Cape Breton (gần Canada lục địa).[290]

Tiến bộ kỹ thuật và quân sự

Một trong những phát triển quan trọng trong lĩnh vực quân sự thời Hậu kỳ Trung Cổ là việc sử dụng ngày càng nhiều bộ binh và khinh kỵ.[291] Người Anh còn sử dụng lính cung dài như một lực lượng then chốt, nhưng các quốc gia khác bắt chước thành lập các lực lượng tương tự không thành công.[292] Áo giáp tiếp tục phát triển, và áo giáp tấm ra đời dưới áp lực của sức mạnh ngày càng tăng của nỏ cũng như súng cầm tay mới xuất hiện.[293] Các vũ khí cán dài như thương, giáo trở nên nổi bật với sự phát triển của bộ binh Bỉ và Thụy Sĩ trang bị bằng các loại giáo dài.[294]

Trong nông nghiệp, một tiến bộ đáng kể là việc sử dụng ngày càng nhiều cừu cho len sợi dài cho phép cộn những ống sợi chắc hơn. Quan trọng không kém là việc thay thế con quay truyền thống bằng bánh xe sợi, làm tăng gấp ba năng suất xe sợi bằng tay.[295][chú thích 31] Một cải tiến ít có tính công nghệ hơn nhưng có tác động đáng kể tới đời sống thường nhật là việc sử dụng cúc để đóng quần áo, giúp cho quần áo vừa người hơn mà không phải nịt chặt vào người mặc.[297] Các cối xay gió được tinh chỉnh với sự xuất hiện của các cối xay dạng tháp, cho phép phần trên của cối xay quay xung quanh để hướng vào bất kì hướng gió nào đang thổi.[298] Các bễ lò xuất hiện khoảng năm 1350 ở Thụy Điển, tăng cường số lượng sắt chế tạo và cải tiến chất lượng.[299] Luật cấp bằng sáng chế đầu tiên năm 1447 ở Venezia bảo vệ quyền của nhà phát minh đối với tài sản trí tuệ của họ.[300]

Nghệ thuật và kiến trúc

Khung cảnh Pháp tháng Hai từ cuốn sách các giờ kinh minh họa thế kỷ 15 Très Riches Heures du Duc de Berry

Hậu kỳ Trung Đại ở châu Âu xét toàn thể tương ứng với các thời kì văn hóa Trecento và Sơ kỳ Phục Hưng ở Ý, mặc dù Bắc Âu và Tây Ban Nha tiếp tục theo phong cách Gothic, ngày càng tinh xảo trong thế kỉ 15, cho đến gần hết thời Trung Đại. Gothic quốc tế là một phong cách cung đình phổ biến khắp châu Âu những thế kỉ gần 1400, tạo nên những kiệt tác như Très Riches Heures du Duc de Berry.[301] Nghệ thuật thế tục tiếp tục gia tăng về số lượng và chất lượng và trong thế kỉ 15 tầng lớp buôn bán ở Ý và Vlaanderen trở thành những nhà bảo trợ quan trọng, đặt hàng những bức chân dung sơn dầu cũng như một lượng lớn những đồ trang sức, tráp ngà, rương cassone và đồ gốm maiolica. Mặc dù các vương tộc thường sở hữu những bộ sưu tập đồ lưu niệm khổng lồ, chỉ còn một ít lưu lại tới nay như Cúp Thánh Anê.[302] Ngành sản xuất lụa của Ý phát triển đến mức các nhà thờ và giới thượng lưu phương Tây không còn cần phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ Byzantine hay thế giới Hồi giáo. Ở Pháp và Vlaanderen nghề dệt thảm trở thành một ngành công nghiệp xa xỉ quan trọng.[303]

Các kiểu thức điêu khắc bên ngoài khổ lớn ở các nhà thờ giai đoạn đầu Gothic nhường chỗ cho những điêu khắc bên trong tòa nhà, và các hầm mộ trở nên tinh xảo trong khi nhiều chi tiết khác như bục giảng kinh đôi khi được chạm khắc lộng lẫy như ở nhà thờ Sant'Andrea (Ý). Các bàn thờ bằng gỗ được chạm hoặc sơ trở nên phổ biến, đặc biệt vì các nhà thờ tạo nên các giáo đường nhỏ. Hội họa Hà Lan sơ kỳ bởi những nghệ sĩ như Jan van Eyck (mất năm 1441) và Rogier van der Weyden (mất năm 1464) cạnh tranh với hội họa Ý, cũng như các thủ bản minh họa phương bắc, mà trong thế kỉ 15 được sưu tầm ở quy mô lớn bởi giới thượng lưu, những người cũng đặt hàng các cuốn sách thế tục, đặc biệt là lịch sử. Từ khoảng năm 1450 sách in nhanh chóng trở nên phổ biến, mặc dù vẫn còn rất đắt. Có khoảng 30 nghìn đầu sách hoặc tác phẩm khác nhau được in trước năm 1500,[304] ở thời mà các thủ bản minh họa chỉ do hoàng gia và một vài người khác đặt hàng. Các tranh khắc gỗ nhỏ, phần lớn có tính cách tôn giáo, thường giá phải chăng hơn ngay cả với nông dân ở một số miền thuộc phía bắc châu Âu từ giữa thế kỉ 15. Các tranh khắc kim loại đắt tiền hơn và dành cho một thị trường những người giàu có hơn.[305]